Showing posts with label Khoi nghiep. Show all posts
Showing posts with label Khoi nghiep. Show all posts

04 November 2012

Từ đáy xã hội thành người giàu nhất Trung Quốc


42 tuổi vẫn còn nghèo rớt, nhưng 20 năm sau Zong Qinghou trở thành người giàu nhất Trung Quốc với tài sản trị giá hơn 20 tỷ USD.
Hơn 20 năm trước, khi Zong Qinghou 42 tuổi, ông thuộc dạng nghèo "rớt mồng tơi" và xoay xở kiếm sống bằng cách bán nước ngọt, kem que ở các cổng trường.
 
Zong Qinghou và con gái Kelly Zong, người sẽ thừa kế gia sản của Zong trong tương lai. Ảnh: AP
 
Thời gian đó, ông kiếm được khoảng 8 USD một tháng, thấp hơn cả mức lương của một phần ba dân số Trung Quốc. Thường xuyên cháy túi đến nỗi có lần ông phải ngủ bờ ngủ bụi vì không có tiền thuê nhà trọ.
Thế nhưng ngày nay khi đã 67 tuổi, Zong đã thành doanh nhân thành đạt, ông trùm ngành nước giải khát và là người giàu nhất tại Trung Quốc đại lục.
Tính đến tháng 10 này, tài sản của ông được Bloomberg định giá ở 20,1 tỷ USD, giàu thứ 30 thế giới.
Ngay cả tại một đất nước vừa trải qua thời kỳ tăng trưởng bùng nổ, thì câu chuyện từ trắng tay thành giàu cự vạn như của Zong cũng được xem là kỳ tích.
Sinh năm 1945, thời trẻ của Zong trôi qua chủ yếu trên cánh đồng và không có nổi tấm bằng trung học.
"Trong một thời gian dài, tôi thường xuyên thiếu tiền mua cái ăn thứ mặc. Có thể nói tôi đã từ dưới đáy xã hội ngoi lên", Zong nói khi hồi tưởng về thời trẻ của mình.
Zong Qinghou cũng đã chứng kiến Cuộc Cách mạng Văn hóa dưới thời Mao Trạch Đông và dành nhiều thời gian nghiền ngẫm những quyển sách dạy cách cam chịu vượt qua khủng hoảng.
Đến khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền và đẩy mạnh kinh tế thị trường, Zong Qinghou cho rằng đã đến lúc làm giàu.
Năm 1987, ông vay 22.000 USD từ họ hàng và cùng hai cộng sự mở một cửa hàng rau quả. Đây là bước khởi đầu của Zong để thành lập công ty Wahaha, chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm đồ uống sau này.
Trong năm đầu tiên, Zong thu về khoản lợi nhuận 15.991 USD, gấp 50 lần thu nhập bình quân đầu người thời gian đó.
Việc kinh doanh của ông ngày càng phát đạt trong hai thập kỷ rưỡi tiếp theo, vào thời kỳ Trung Quốc tăng trưởng phi mã với tốc độ GDP mở rộng trên 10% mỗi năm. Công ty Wahaha của ông Zong đã thu hút lượng khách lớn nhờ việc tầng lớp nghèo ngày càng khấm khá.
Năm ngoái, Wahaha có doanh thu 11 tỷ USD, chiếm thị phần thứ 3 về đồ uống tại Trung Quốc, đứng sau Coca-Cola và thương hiệu Tingyi của Hong Kong.
Zong dự đoán lợi nhuận sẽ còn tăng trưởng 60% trong năm nay. Hiện Zong, vợ và con gái nắm giữ 80% cổ phần của công ty.
Giờ đây khi làm chủ tịch của tập đoàn nước giải khát Wahaha, Zong vẫn duy trì phong cách đạm bạc và nhất quán.
Ông thường ngủ nghỉ tại trụ sở chính của công ty đặt tại Hàng Châu, thủ phủ của tỉnh Triết Giang.
Mỗi buổi trưa, ông xuống căng tin dưới tầng một để dùng bữa, chọn món ăn như các công nhân của mình.
Người đi đường nếu không biết mặt Zong Qinghou thường không liếc ông đến lần thứ 2 vì tỷ phú giàu nhất Trung Quốc chẳng có gì nổi bật.
Không bao giờ có vệ sĩ, ông thường ra ngoài với một chiếc áo khoác màu tối, đi giày da trơn, tất cả đều là hàng nội địa.
Zong Qinghou chỉ mua giày mới khi ai đó nhắc rằng giày mình đã cũ. Thứ xa xỉ nhất trên người vị doanh nhân này là chiếc đồng hồ Vacheron Constantin giá 48.000 USD, ông mua để thay chiếc Rolex cũ.
"Nhiều người bảo tôi rằng Rolex chỉ dành cho nhà giàu mới nổi", ông cười cho biết.
"Khi còn nghèo, tôi luôn phải tìm cách vươn lên. Những kinh nghiệm đó giờ đây vẫn còn giúp ích tôi rất nhiều", ông chia sẻ với tờ Bloomberg.
Theo VnExpress

Kissy Việt Nam - 8 năm một thương hiệu


Ngày 10/7/2004, Kissy Việt Nam được thành lập. Không lâu sau đó, các dòng khẩu trang Kissy đầu tiên ra đời và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.
Trước đây, khẩu trang chỉ được biết đến với chức năng chống khói bụi, không được chú trọng hình thức, thiết kế đơn giản, nhưng sau đó, với Kissy, sản phẩm khẩu trang đã có những đột phá. 

Từ xây dựng thương hiệu
Khẩu trang Kissy được làm từ chất liệu độc đáo với nguyên liệu tự nhiên và độ thuần Việt lên đến hơn 90%, kiểu dáng thời trang thích hợp với mọi đối tượng khách hàng và môi trường. Đặc biệt, tuổi thọ của Kissy vượt trội và nhất là khắc phục được những lỗi mà các sản phẩm khẩu trang khác thường mắc phải như: nhăn nhúm, phai màu, không thuận tiện để giặt giũ, không giữ nguyên được bản chất của sợi hoạt tính, dây đeo không có tính đàn hồi dẫn đến đau vành tai khi sử dụng. Với những tính năng trên,  từ một sản phẩm mới mẻ, xa lạ, Kissy đã trở nên thông dụng trên thị trường, là sự lựa chọn tốt của khách hàng. Cũng từ đó, Kissy đã tạo ra quan niệm và thói quen sử dụng khẩu trang mới của người Việt.
Từ dòng sản phẩm đầu tiên là khẩu trang cho người lớn, Kissy đã tiếp tục phát triển thêm các dòng sản phẩm mới dành riêng cho trẻ em. Kissy hiện là nhà cung cấp lớn nhất và uy tín hàng đầu về khẩu trang tại Việt Nam. Hiện nay, Kissy đã có mặt ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Với nguồn cán bộ quản lý giỏi và đội ngũ công nhân lành nghề, chiến lược phát triển đúng đắn, nhạy bén, kịp thời, Kissy luôn duy trì được mức tăng trưởng tốt kể cả trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế.
Ngoài việc chú trọng đến kinh doanh và phát triển nền tảng kinh doanh, Kissy luôn quan tâm xây dựng nền tảng đạo đức nghề nghiệp và văn hóa riêng của Kissy. Trong đó, quá trình cải thiện chất lượng sản phẩm, phục vụ liên tục, chuyên nghiệp, mang lại sự thỏa mãn lớn hơn của khách hàng là yếu tố được Kissy đặt lên hàng đầu.

Đến trách nhiệm xã hội
Ngay từ ngày đầu thành lập, Kissy Việt Nam đã thường xuyên, tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ các vùng quê bị lũ lụt, thiên tai; hỗ trợ trẻ em khuyết tật, người nghèo... Ngoài ra, với mong muốn giúp đỡ cho người khuyết tật (NKT) cảm nhận được ý nghĩa của cuộc sống, được sống bằng chính sức lao động của mình, Kissy Việt Nam đã tiếp nhận NKT vào làm việc, để chính những NKT làm ra những sản phẩm thân thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. NKT đến Kissy làm việc không chỉ được đào tạo nghề, mà còn được giáo dục về ý thức kỷ luật lao động, sinh hoạt, nên khi tham gia các hoạt động cộng đồng hoặc chuyển công việc đều được mọi người khen ngợi, đánh giá cao.
Chia sẻ về hành trình tiếp theo của Kissy Việt Nam, bà Phạm Huệ Nương - Chủ nhãn hiệu Kissy Việt Nam cho biết “Mặc dù hiện nay kinh tế đang trong giai đoạn khủng hoảng, ảnh hưởng đến hoạt động của nhiều doanh nghiệp, nhưng với chiến lược kinh doanh hiệu quả, cùng tinh thần đoàn kết của tập thể cán bộ, nhân viên, Kissy Việt Nam sẽ luôn phát triển, duy trì việc làm ổn định cho NKT, biến nơi đây thành một mái nhà vững chắc của NKT, giúp họ tự tin, hòa nhập cộng đồng”.
Có thể nói, với những kinh nghiệm đúc kết trong sản xuất kinh doanh mà Kissy Việt Nam đã thực hiện trong thời gian qua, cùng sự điều hành của Ban lãnh đạo, sự quyết tâm của tập thể cán bộ, nhân viên, Kissy Việt Nam sẽ luôn có đủ thế và lực để tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới trong tương lai.
PV

12 August 2012

Biến vấn đề thành cơ hội kinh doanh


Không ai hiểu vấn đề của bạn hơn chính bản thân bạn, và thật tuyệt vời khi bạn giải quyết được nó theo cách sáng tạo. Nhưng liệu bạn có thể kiếm tiền từ những sáng tạo này hay không?
Hãy đọc câu chuyện sau đây:
Adie Horowitz kể, 17 năm trước, những đứa con của cô về nhà với mái đầu đầy chấy rận. Bác sĩ đã giới thiệu một loại dầu gội trị chấy nhưng cô từ chối vì không muốn bôi “thuốc trừ sâu” lên tóc con mình. Chấy có thể sinh ra 10 trứng/ngày, vì vậy cô cần phải làm gì đó để tránh căn bệnh phiền hà đang ngày một gia tăng theo cấp số nhân.
Horowitz đã đến thư viện lớn nhất tại Manhattan để nghiên cứu và thế là cô tìm được công thức trị chấy rận từ thảo dược của châu Âu. Sau khi tìm được thảo dược, cô đặt mua một chiếc lược chải chấy từ Đức và tự bào chế thuốc trị chấy cho riêng mình.

Loại thuốc này đã giúp những đứa trẻ nhà Horowitz khỏi bệnh hoàn toàn.

Vui mừng vì thành công, Horowitz đã kể cho mọi người nghe và ngay sau đó, cô nhận được rất nhiều cuộc gọi nhờ tư vấn và giúp đỡ từ khắp nơi ở Brooklyn.

Sau đó, Licenders ra đời. Qua nhiều năm giúp các trẻ em trị chấy tại trường học và trước khi đi cắm trại, đến nay, doanh thu của công ty đã vượt mức 1 triệu USD và sở hữu 5 văn phòng. Horowitz nói, những người nổi tiếng như Kelly Ripa hay các bà mẹ trong chương trình “The Real Housewives of New York” có thể minh chứng cho dịch vụ và sản phẩm không độc hại của Licenders.
Horowitz đã biến vấn đề của mình thành một hoạt động kinh doanh vững chắc.
Còn bạn thì sao? Sau đây là một số lời khuyên:

Bắt đầu với một vấn đề mà ai cũng gặp phải
Bài toán mà Horowitz cần giải là vấn đề khiến nhiều người đau đầu. Bạn cần đánh giá được vấn đề của bạn có phải là vấn đề của số đông hay không, khi đó, giải pháp của bạn mới có thể trở thành sản phẩm để kinh doanh.

Một nhân viên phát triển ứng dụng khoe hàng trăm lần rằng anh ấy đã gặt hái được thành công lớn khi xử lý được rắc rối trong việc tạo ra ứng dụng giúp người dùng có thể đánh giá xem những bức ảnh quảng cáo có giống với sản phẩm thực hay không.

Cá nhân bạn có thể cho rằng đó không phải là một vấn đề cần giải quyết, nhưng anh ấy lại không nghĩ như vậy. Đôi khi, rất khó để phán xét công bằng, vì vậy, hãy để những xung quanh đóng góp vào ý tưởng của bạn.

Kiên trì và thử nhiều cách khác nhau
Không ai có thể nắm bắt được tương lai, nếu bạn đã quyết định đi vào kinh doanh, thì mọi sự cố đều có thể xảy đến. Bạn có thể thành công hoặc thất bại, nhưng bạn cần phải có cái nhìn tổng thể và kiên trì.
Bạn có thể gặp sai lầm, có thể mất tiền nữa, nhưng hơn hết, bạn có thể học hỏi từ những sai lầm đó và lớn lên.
Gia nhập hiệp hội doanh nghiệp
Horowitz lớn lên trong một gia đình có truyền thống kinh doanh, vì thế, cô khởi nghiệp dễ dàng hơn nhiều doanh nhân khác. Dù vậy, cô cũng phải nhờ vào sự giúp đỡ quý báu, những lời khuyên và tư vấn từ rất nhiều tổ chức mà cô tham gia, đơn cử như Count Me In, một tổ chức phi lợi nhuận tại Mỹ cung cấp nguồn lực và hỗ trợ cho cộng đồng nữ doanh nhân.

Thuê những người cần thiết
Muốn phát triển việc kinh doanh, bạn sẽ phải chi tiêu rất nhiều. Vì vậy, việc thuê một luật sư, một kế toán và một nhân viên tài chính là việc làm hết sức quan trọng. Và nếu bạn không có thời gian chăm nom việc học của con cái, hãy thuê một gia sư. Có rất nhiều người sẵn sàng giúp bạn cân bằng lại cuộc sống của mình.

Cống hiến cho cộng đồng
Horowitz thường xuyên giúp đỡ những trẻ em không đủ điều kiện sử dụng dịch vụ và sản phẩm của Licenders. Chính việc làm từ thiện của mình đã giúp cô nhận lại những phần thưởng xứng đáng khi danh tiếng của Licenders ngày càng đi xa.
Không nhất thiết bạn phải cho không mọi thứ, có rất nhiều cách để bạn đáp trả lại cộng đồng, nơi đã giúp cho sự nghiệp của bạn tồn tại và thành công.

Nguon: Diendandoanhnghiep

10 August 2012

Khởi nghiệp bằng sản phẩm mới: những sai lầm cần tránh

Không phải ai cũng có kinh nghiệm trong việc sáng tạo ra một sản phẩm mới hay khởi xướng một lĩnh vực kinh doanh mới. Chuyện vấp phải những sai lầm trong quá trình khởi nghiệp theo con đường đó không phải là hạn hữu, nhưng hoàn toàn có thể tránh nếu biết cách đề phòng…



Có những sai lầm nhỏ lẫn những sai lầm nghiêm trọng tới nỗi có thể phá hỏng mọi nỗ lực, làm tổn thất lớn về tiền bạc và mất đi sự tự tin của người khởi nghiệp. Đó là những sai lầm, thiếu sót phổ biến dưới đây.
 
 1. Kỳ vọng vào những kết quả không thực tế
 
Nhiều người nghĩ rằng sáng tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ mới là con đường làm giàu nhanh nhất. Thực tế, đó là một suy nghĩ đầy nguy hiểm, bởi lẽ việc tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ mới là một quá trình khó khăn và khó có ai trở thành triệu phú ngay từ bước khởi đầu. Hiển nhiên, với những ý tưởng mới, bạn sẽ có cơ hội kiếm ra tiền và khi những ý tưởng đó phát triển, bạn sẽ trở nên giàu có. Tuy nhiên, điều quan trọng là muốn khởi nghiệp thành công bằng con đường sáng tạo, bạn phải đánh giá đúng những nguồn lực mình đang có (kiến thức, kinh nghiệm, tiền bạc), đo lường sức mạnh của động cơ khiến mình dấn thân vào lĩnh vực mới và thời gian mình có thể sẵn sàng bỏ ra để phát triển ý tưởng mới. Sau đó, bạn cần xây dựng một kế hoạch khả thi phù hợp với những yếu tố nói trên.
 
 2. Không nghiên cứu thị trường sớm
 
Nếu có một ý tưởng mới và tin chắc rằng mọi người sẽ cổ vũ cho ý tưởng đó, bạn có thể bỏ ra nhiều tiền để biến ý tưởng đó bằng hiện thực bằng cách xây dựng một mô hình kinh doanh mẫu, làm ra những sản phẩm mẫu, phát triển một kế hoạch kinh doanh, thuê mướn các nhà tư vấn, các luật sư. Trường hợp ai quá say sưa với ý tưởng của mình mà không biết rằng thị trường đã tồn tại một sản phẩm hay dịch vụ tương tự đã đầu tư không đúng hướng.
 
Để khắc phục tình trạng trên, bạn phải thực hiện nghiên cứu thị trường ngay khi vừa nảy ra ý tưởng mới. Có thể tìm hiểu thực tế từ các cửa hàng, xem các catalogue của công ty, tìm thông tin trên internet. Đôi khi chỉ cần 10 phút trên internet là bạn đã có thể xác định được sản phẩm hay dịch vụ do mình vừa nghĩ ra có thật sự mới hay không.
 
Nếu sản phẩm hay dịch vụ do bạn nghĩ ra chỉ tương tự với những gì đang có sẵn trên thị trường chứ không phải giống hoàn toàn, bạn vẫn còn cơ hội để phát triển ý tưởng đó xa hơn. Vấn đề là phải khách quan tìm hiểu tất cả những đặc điểm sản phẩm do mình nghĩ ra và so sánh kỹ với các sản phẩm có trên thị trường để hội tụ đủ điều kiện đảm bảo cho nó tồn tại đủ lâu trên thị trường từ khi được tung ra.
 
 3. Cho rằng sản phẩm hay dịch vụ mới sẽ được khách hàng quan tâm, đón nhận
 
Ngay cả khi đã nghiên cứu thị trường, biết đựơc sản phẩm mới của mình khác với sản phẩm đang có thì cũng không thể kết luận ngay rằng khách hàng sẽ thích sản phẩm đó. Bạn phải tiếp tục nghiên cứu thị trường để tìm hiểu khách hàng thật sự nghĩ gì về sản phẩm mới và họ có sẵn sàng mua nó hay không. Phải thực hiện nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc.
 
 4. Đầu tư tất cả tiền bạc để lấy bằng chứng nhận cho sản phẩm mới
 
Bằng sáng chế (patent) là một sản phẩm có giá trị, nhưng nó không phải là tất cả để làm cho một sản phẩm mới đứng vững trên thị trường. Tốt nhất là không nên nghĩ ngay đến việc phải lấy được một tấm bằng sáng chế khi vừa thiết kế ra một sản phẩm mới, vì vậy việc này tốn thời gian và tiền bạc. Điều quan trọng hơn là nên nghĩ xem ý tưởng mới, sản phẩm mới có được thị trường chấp nhận hay không. Thực tế cho thấy, chỉ có 2-3% số ý tưởng được cấp bằng trên thế giới được biến thành hiện thực. Ngược lại, có rất nhiều sản phẩm vẫn sống khoẻ trên thị trường nhưng chẳng hề có tấm bằng sáng chế nào.
 
 5. Thiếu sự nhạy bén và những kỹ năng nhất định trong kinh doanh
 
Nhiều người tin rằng thành công của một sản phẩm được bắt đầu và kết thúc bằng một ý tưởng lớn. Trên thực tế, ý tưởng chỉ góp một phần nhỏ tạo nên thành công. Một doanh nhân có thể có rất nhiều ý tưởng, nhưng anh ta có thành công hay không là nhờ sự nhạy bén trong việc sàng lọc các ý tưởng có được để chọn ra những ý tưởng khả thi, làm ra những sản phẩm mà thị trường cần. Trong trường hợp bạn thành lập một công ty để biến ý tưởng của mình thành hiện thực thì đó mới chỉ là bước khởi đầu. Để doanh nghiệp hoạt động thành công, bạn cần phải biết cách quản lý các công việc sản phẩm, bán hàng, tiếp thị, tài chính, nhân sự…
 
Theo Doanh Nhân Sài Gòn Cuối Tuần

06 August 2012

Khởi nghiệp: Dễ chung lòng, khó chung vốn


Xu hướng liên kết để khởi nghiệp ngày càng rõ rệt hơn trong giai đoạn kinh tế khó khăn. Chung lòng thì dễ, chung vốn có thuận lợi hay không lại là chuyện khác.
Là một kỹ sư phần mềm, từ ngày còn đi học, ước mơ của Lê Hồng Hải Nhân hết sức bình thường là ra trường, đi làm thuê cho các công ty và xây dựng gia đình. Tuy nhiên, bước vào năm 3 đại học, quan niệm của Hải Nhân đã hoàn toàn thay đổi khi trải qua quá trình thực tập tại một công ty phần mềm.

Càng tiếp xúc, càng thấy công việc mình đã chọn thiếu sáng tạo, không gây được hứng thú cho bản thân, Hải Nhân tỏ ra lo lắng. Anh tham gia vào một công ty khởi nghiệp và bắt đầu nhen nhúm ước mơ. “Lúc đó, tôi mới biết mình chọn sai đường và ước mơ của tôi là được làm chủ”, Hải Nhân chia sẻ. Nhưng tìm được số vốn đủ để khởi nghiệp với Nhân là chuyện chẳng dễ dàng.
Tạo dựng niềm tin
Biết mình khó xoay sở được vốn, Hải Nhân quyết định đi làm để tích lũy tài chính, cũng là cơ hội để kiểm tra một lần nữa xem con đường mình chọn liệu có sai như mình cảm giác hay không. Hai năm gắn bó với công ty phần mềm, vẫn thấy mình không có cơ hội đầu tư, Hải Nhân chọn hướng đi khác cho hành trình làm chủ của mình: Khởi nghiệp cùng 1 nhóm bạn. Trước tiên là làm dự án quán cà phê có tên là Niche Café để có không gian thực hiện ước mơ.

Theo dự án, quán cần ít nhất là 350 triệu đồng để đầu tư. Có đến 7 người đồng ý cùng tham gia với Nhân, nhưng thành viên nhóm đa số là sinh viên tỉnh lẻ, việc huy động mỗi người 50 triệu đồng là không dễ. Nhân kể: “Biết khó nhưng cả nhóm thống nhất chỉ tiêu rồi mỗi người một hướng để tìm vốn”. Điểm đến đầu tiên của Nhân là gia đình.

Tuy nhiên, khi hỏi ý kiến ba mẹ thì Nhân lập tức bị phản đối. Các thành viên khác cũng chung số phận. Biết mình không thể nói suông, Nhân bàn với các thành viên trong nhóm lên kế hoạch cụ thể về dự án, dự định thu - chi như thế nào, định hướng cho từng giai đoạn ra sao. “Muốn người khác góp vốn thì phải cho họ tin vào ý tưởng khởi nghiệp của mình”, Nhân tiết lộ.

Từ cách làm này, niềm tin dần lan tỏa và 7 người trong nhóm của Nhân đều kêu gọi được vốn từ gia đình, bạn bè... Quán Niche Café ra đời nhờ vào bước khởi đầu là tạo dựng được niềm tin.

Đồng cảnh ngộ, những sáng lập viên của Aothun.vn khi bắt tay vào dự án của mình cũng đối mặt với áp lực nguồn vốn. Anh Nguyễn Văn Lộc, sáng lập viên Aothun.vn kể, trước Aothun.vn, anh là chuyên viên công nghệ thông tin, từng thử sức với thương trường ở tuổi 19, khi bắt tay khởi nghiệp bằng việc lập một công ty thiết kế web, sau đó đi làm thuê cho một công ty trong nước, rồi mới khởi nghiệp lần 2 cùng đồng sự. “Dù đã 2 lần khởi nghiệp nhưng khó khăn nhất vẫn là tài chính”, Lộc chia sẻ.

Cùng nhau viết kế hoạch kinh doanh, phân tích mọi thuận lợi và khó khăn kín 40 trang giấy rồi đem gửi khắp nơi là cách mà Aothun.vn gọi vốn. Lộc cho biết, thứ tự ưu tiên để gọi vốn là gia đình, bạn bè, nhà đầu tư nhỏ, sau mới đến quỹ đầu tư. “Muốn người khác tin và cấp vốn cho mình kinh doanh thì phải tạo niềm tin nơi họ bằng hành động cụ thể”, anh cho biết.

Giữ tình đồng chí
Từ một xưởng may nhỏ, diện tích chỉ 10m2, nay lượng nhân viên của Aothun.vn đã lên đến 90 người, xưởng sản xuất hơn 1.000m2, tăng trưởng 4 năm liên tục. Tương tự, Niche Café đã trụ vững và có doanh thu tốt, trở thành điểm đến của các bạn trẻ, nhất là khi có nhu cầu hội họp. Tuy nhiên, với những bạn trẻ này, gọi được vốn chỉ là điểm khởi đầu.

Nguyễn Văn Lộc kể, ở lần khởi nghiệp đầu tiên, anh khá hồn nhiên, chỉ nghĩ vốn là quan trọng, và kết hợp với bạn bè để cùng làm tốt, bổ sung cho mình. “Sau 4 năm trên thương trường, tôi đã suy nghĩ khác, phải tìm hiểu tính cách cá nhân của đối tác xem có thích hợp để khởi nghiệp cùng nhau”, Lộc chia sẻ.

Anh cho biết, từ tích cách mà phân chia thành 4 nhóm người: cầu toàn, mạnh mẽ, sôi nổi và cầu an. Phải khảo sát để tìm hiểu tính cách để biết có hợp nhau không. Nhờ chu đáo trong công tác chọn đối tác mà trong lần tái khởi nghiệp, Lộc và đồng sự đã thành công.

Không chỉ tính cách, theo anh Nguyễn Anh Khoa, Trưởng Dự án Green Bricks, quán quân Hội trại khởi nghiệp VYE 2011, khi khởi nghiệp trong nhóm nhiều người, mỗi người có mục tiêu riêng, rất khó để tạo nên sức mạnh chung. “Điều kiện tiên quyết là phải họp lại để hiểu mục tiêu chung và cùng nhau làm việc”, Khoa chia sẻ.

Ngoài việc thống nhất mục tiêu, sự bình đẳng trong mọi quyết định cũng hết sức quan trọng. Cùng nhau làm chủ nên tất cả phải cùng dung hòa quyền lợi cá nhân, phải thống nhất về mặt chi tiết các chính sách cho doanh nghiệp của mình.

Tất nhiên, đã là mối quan hệ giữa người và người, chuyện tranh luận trong nhóm khởi nghiệp cũng sẽ khó tránh khỏi. “Nguyên tắc chung của nhóm là nếu không thuyết phục được người khác là mình đúng thì phải tự thuyết phục được bản thân là mình sai”, Hải Nhân tư vấn.
 
Theo DNSG

Tổng giám đốc Vinamit Nguyễn Lâm viên : Ý thức doanh nhân ASEAN +1...


(DĐDN) Đi khắp trong và ngoài nước ngay từ đầu năm 2012, có vẻ như Nguyễn Lâm Viên - ông chủ Vinamit đang ấp ủ những kế hoạch nào đó. Liệu đây có phải là thời điểm Vinamit sẽ làm nên một bước đột phá mới trên bước đường vốn dĩ đã thành công ? Trò chuyện với doanh nhân Nguyễn Lâm Viên - Chủ tịch kiêm TGĐ Vinamit.
Phải “đánh” xong thị trường Asean...

- Trong bối cảnh khó khăn của năm 2012, tình hình ở Vinamit như thế nào, thưa ông ?
Như mọi DN, Vinamit cũng có sự sút giảm. Nhưng may mắn là kiểu kinh doanh của Vinamit có phần khác biệt với nhiều DN khác. Thị trường nội địa chỉ chiếm 50% doanh số nên chúng tôi vẫn còn 50% thị trường bên ngoài có thể đỡ lại. Tôi đang xách giỏ đi nhiều hơn. Thị trường trong nước bảo hòa và suy yếu thì ta phải đẩy mạnh khai thác thị trường bên ngoài. Tuy vậy, về nguyên tắc chúng tôi cũng phải co lại, thắt lưng buộc bụng. Giữ lực và chờ khi thị trường khởi sắc trở lại là yếu tố sống còn của hầu hết các DN, bao gồm cả Vinamit lúc này.
- Nhưng thị trường bên ngoài cũng đang suy yếu ?
Tôi tập trung vào thị trường Trung Quốc. Thật ra, Trung Quốc vẫn là thị trường chiếm doanh số lớn nhất trong xuất khẩu của Vinamit. Trước đây, chúng tôi vẫn chưa đẩy mạnh toàn phần, chưa khai thác hết tiềm năng của thị trường này.  Hàng hoá của Vinamit đã có vị trí tại Trung Quốc nên việc tiếp cận và đẩy mạnh hơn nữa sẽ không tốn quá nhiều công sức, nguồn lực lẫn thời gian. Do đó, nếu đẩy mạnh việc khai thác thị trường thì hiệu quả cũng sẽ dễ thấy được nhanh và rõ ràng hơn.
Bên cạnh đó, với thị trường này, chúng tôi luôn nghĩ ra những phương thức  thay đổi mới để thị trường bắt chước, nhái, giả không theo kịp.
- Để in dấu một hệ thống nhận diện thương hiệu tại thị trường này hẳn cũng không dễ dàng ?
Thay đổi nhưng lại phải biết tiết giảm ở mức độ vừa đủ, sao cho hàng giả không giả được mà người tiêu dùng cũng không thấy cũ kỹ, nhàm chán. Về cơ bản là phải giữ một sự cân bằng giữa truyền thống và đổi mới để sao cho vẫn giữ được các ký hiệu giúp người tiêu dùng nhận diện được thương hiệu. Đó là cả một nghệ thuật sáng tạo.
- Vinamit có dành “ưu tiên” đầu tư cho những thị trường nào khác ?
Vinamit đang xuất hàng qua Philippine, Singapore, Thái Lan và một số địa bàn khác.  Nhưng năm nay tôi vẫn tập trung cho thị trường Trung Quốc . Tôi quan niệm rằng phải “đánh” xong thị trường ASEAN thì mới bung ra bên ngoài. Tất nhiên, ở các thị trường khác, cũng phải đặt chân và giữ vị trí thông qua các đại lý phân phối, thì khi bung ra mới không mất quá nhiều công sức.
Không giới hạn sản phẩm
- Về  sản phẩm, Vinamit có bung ra theo từng dòng sản phẩm và ưu tiên những mũi nhọn nhất định ?
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, tôi chủ trương mở rộng trong giới hạn các sản phẩm đều sẽ là thuần tuý nông nghiệp. Hiện nay, Vinamit đang mở ở Trung Quốc Cty phân phối hàng nông nghiệp VN, bao gồm những gì người Trung Quốc thích và ta cung ứng được như sữa, gạo, cà phê, các loại ngũ cốc …Với hình thức trung gian phân phối, các sản phẩm này được Vinamit triển khai ra thị trường theo hình thức tập trung khâu bảo quản nhằm tạo ra giá trị gia tăng.
Vinamit là DN chế biến và bảo quản sau thu hoạch tất cả mọi loại sản phẩm nông nghiệp là sức mạnh truyền thống của Vinamit, thành ra khi đẩy mạnh các dòng sản phẩm mới, chúng tôi không hề e ngại sẽ xa rời sức mạnh truyền thống của mình.  Về nguyên tắc, mọi hoạt động kinh doanh đều do thị trường quyết định. Mình phải chọn cách đầu tư phù hợp với bối cảnh và đặc trưng của từng thị trường. Khi mới bắt đầu thì mọi chủ ý có thể sẽ không như mong muốn, thị trường chưa chắc ổn định và nuôi thị trường là điều ta phải chấp nhận. Tin rằng làm được như vậy thì khi kinh tế toàn cầu tốt hơn, mọi việc sẽ thuận lợi. DN không thể ngồi một chỗ, chờ lãi suất hạ thấp mới vay tiền đầu tư, có nhà máy mới chịu đi bán hàng…
- Hiện nhiều DN chọn cách quay về với thị trường nội địa. Quan điểm của ông và Vinamit ?
Tôi đâu có quên thị trường nội địa. Đây mới chính là thánh địa, lãnh địa, hậu phương của DN Việt. Nhưng tôi tiếp cận thị trường nội địa luôn theo một cách riêng, không ồ ạt và to tát. Cứ từ từ mà mọi thứ sẽ loang ra. Chắc chắn Vinamit sẽ có một bước ngoặt quan trọng trong tiếp cận thị trường nội địa ở một ngành hàng mới: Café.
- Đây vốn là một thị trường đã có nhiều thương hiệu lớn với áp lực cạnh tranh không hề nhỏ, thưa ông ?
Thứ gì không phải thế mạnh của mình thì mình sẽ không tham gia, nhưng thứ gì mà nông nghiệp VN đang có, ngon và nổi tiếng trên thế giới, thì mình sẽ không bỏ qua – đó là nguyên tắc của tôi. Ví dụ như khi ra thị trường quốc tế, tôi giới thiệu gạo, café, tiêu, điều, cao su... của VN thì người tiêu dùng quốc tế tin.  Cánh cửa cho thị trường này theo tôi còn rất rộng. Tuy nhiên, trong danh sách những sản phẩm nông nghiệp đó, tôi chọn cafe vì tôi đã có sự chuẩn bị kỹ về nhiều mặt.
- Được biết, một số mặt hàng Vinamit đang  tiếp thị và phân phối, không do chính Vinamit sản xuất. Điều này có khiến những sản phẩm mới yếu đi sức lan toả ?
Nguyên tắc của người tôi trong ngành nông nghiệp là chỉ làm chặng đầu và chặng cuối, chặng giữa thì từ từ chuyển giao cho các DN sản xuất trong ngành khác. Điều này giúp tôi có kế hoạch ổn định, tránh chuyện triển khai các vùng trồng không có kế hoạch trước, không định vị được thị trường.
Càng không có gì, đường đi càng thẳng !
- Để thành công trong một quy trình mới và có sự chuyển giao cho các DN sản xuất những chặng giữa, theo ông,  yếu tố then chốt sẽ là gì ?
Con người! Sự đam mê, ý chí của con người đó. Phải có niềm tin, trải nghiệm và nuôi dưỡng để thành 1 thương hiệu mà nhìn là thích, nghe là tin.
Để làm tốt thì mình phải xây dựng hệ thống kiểm soát lẫn nhau, mình có thể đầu tư vào các DN chế biến và đứng ở góc độ nhà đầu tư mà giám sát. Trong tương lai nếu có bán cổ phần Vinamit tôi cũng sẽ tìm các nhà đầu tư có thể giúp mình cùng quản trị, giúp Vinamit làm tốt hơn nữa đầu vào và đầu ra của một sản phẩm.
- Nói đến Nguyễn Lâm Viên, ông muốn mọi người sẽ nói đến điều gì ?
Năm 1987 tôi là người phát hiện ra ngành chế biến và bảo quản sau thu hoạch. Lúc đó người ta rất ngạc nhiên vì người ta nghĩ bao nhiêu đời nay họ vẫn gặt, bảo quản phơi ra đường, không cần xa xỉ phơi sấy theo công nghiệp chế biến. Nhưng nếu nhìn xa,  xác định nông nghiệp là một trụ cột kinh tế của đất nước, thì bây giờ và trong tương lai, không có lý do gì khiến ta xa rời điều đó.
- Nhưng, tại VN việc khắc phục được đầu vào thị trường để triển khai bảo quản, chế biến sau thu hoạch là cả một vấn đề ?
Trước đây, tôi triển khai hàng ngàn hécta trồng mít để đảm bảo chất lượng đầu vào sản phẩm. Việc quản lý chất lượng, sản lượng sản phẩm theo tôi không hẳn là quá khó khăn. Chúng ta có thị trường giao dịch hàng hoá quốc tế, DN có thể thu mua ngay trên sân nhà hoặc cũng có thể nhập hàng nếu cần thiết. Cần nhớ rằng mình không chỉ là DN VN mà là DN ASEAN +1, DN WTO. Không cần phải co cụm, tự ti. Chúng ta càng không có gì, đường đi càng thẳng.
- Xin cảm ơn ông về những chia sẻ!
Lê Mỹ thực hiện - Nguon dddn.com.vn

12 July 2012

“Tròn mắt” trước cô bé doanh nhân mới 6 tuổi


Mặc dù mới 6 tuổi, cô bé Mollie Price tại Anh đã khiến nhiều người phải kinh ngạc khi trực tiếp đứng ra điều hành một chuỗi các cửa hàng kẹo mang tên chính mình và trở thành nữ doanh nhân trẻ nhất nước Anh. Trong khi hầu hết các em nhỏ 6 tuổi khác đều thích ăn kẹo và thích được cùng mẹ tới các cửa hàng bày bán các loại kẹo đủ màu sắc và hình dáng ngộ nghĩnh thì cô bé Mollie Price lại mơ ước trở thành “bà chủ” của thế giới kẹo. Đó cũng chính là lý do đưa em tới con đường kinh doanh khi tuổi còn rất nhỏ.
Cô bé Mollie Price bên người mẹ của mình
Cô bé Mollie Price bên người mẹ của mình
Hiện, Mollie trực tiếp điều hành một chuỗi 3 cửa hàng mang tên chính mình, Mollie’s, đặt tại các thị trấn Welshpool, Newtown và Shrewsbury của nước Anh. Công việc kinh doanh cuả em gặt hái được nhiều thành công đến nỗi em đã được nhiều người biết đến và đặc biệt hơn, em còn được công nhận là doanh nhân trẻ nhất nước Anh.
Với sự giúp đỡ và ủng hộ của mẹ mình, cô Becky, Mollie càng ngày càng chứng tỏ được khả năng và niềm đam mê kinh doanh của mình. Không chỉ dừng lại ở chuỗi 3 cửa hàng kẹo, Mollie còn nung nấu ý định mở rộng kinh doanh mặt hàng này hơn nữa trong tương lai.
Cô Becky tâm sự: “Điều đó nghe có vẻ điên rồ nhưng tôi tin Mollie có đầu óc điều hành. Việc mở cửa hàng bán kẹo cũng chính là ý tưởng của cô bé”. 
Mới 6 tuổi nhưng cô bé đã là chủ của một chuỗi cửa hàng kẹo mang tên mình
Mới 6 tuổi nhưng cô bé đã là chủ của một chuỗi cửa hàng kẹo mang tên mình
 
Được biết, Mollie chính là người trực tiếp sắp xếp và lựa chọn các loại kẹo cho từng cửa hàng. Cô bé làm việc tại một trong những cửa hàng của mình vào thứ Bảy và thức dậy vào 5h mỗi sáng Chủ nhật để đi lấy hàng tại kho ở Birmingham. Cô bé còn mời bạn bè nếm thử kẹo và tư vấn cho mình để lựa chọn loại kẹo phù hợp.
“Con bé đã nghĩ ra một ý tưởng giá trị. Nghe những gì cháu nói, chúng tôi chắc chắn rằng các cửa hiệu của cháu sẽ cuốn hút với mọi lứa tuổi. Con bé còn nghĩ ra ý tưởng về một biểu đồ nhiệt độ trên tường để nếu trời lạnh, chúng tôi sẽ bán kem Mr Whippy với giá rẻ hơn so với thời điểm trời nóng”, bà mẹ tự hào kể về con mình.
Mặc dù đam mê với kinh doanh, thành tích học tập của Mollie không tồi chút nào. Nhờ có sự chăm sóc của mẹ, Mollie vẫn là một cô bé 6 tuổi bình thường với các hoạt động học hành, vui chơi và kết bạn như bao bạn bè đồng trang lứa khác.
Theo DM

11 July 2012

02 July 2012

Sam Walton - Khởi nghiệp từ đồng 1 xu


Nói đến hệ thống bán lẻ ở Mỹ người ta không thể không nhắc tới hai đại gia trong lĩnh vực này đó là Kmart và Wal-Mart. Năm 2001, Kmart tuyên bố phá sản, chỉ còn lại một mình "người khổng lồ" Wal-Mart. Ít ai biết rằng ông trùm bán lẻ này lại khởi nghiệp chỉ với 1 xu.

Sam Walton - ông trùm bán lẻ ở Mỹ

“Từ khi chúng tôi còn nhỏ, Sam Walton đã vượt trội trong bất cứ việc gì mà anh ấy quan tâm. Tôi cho rằng đó là năng khiếu bẩm sinh của Sam. Hồi Sam đi đưa báo, người ta đã tổ chức một cuộc thi đưa báo. Tôi đã quên giá trị của giải thưởng - hình như là 10 đôla và Sam đã thắng. Cuộc thi đó có nội dung là bán báo theo kiểu thuê bao giao đến tận nhà. Và Sam biết rằng anh ấy sẽ thắng. Đó là yếu tố tạo nên con người của anh ấy. Theo tôi, Sam được thừa hưởng nhiều từ tính cách của mẹ chúng tôi“, Bud Walton - nhận xét về anh trai Sam Walton - người sáng lập tập đoàn bán lẻ Wal-Mart như vậy.
Còn Sam Walton thì cho rằng: "Tôi không biết điều gì khiến người ta có tham vọng, nhưng thực tế là tôi đã được trời phú cho động cơ và tham vọng bẩm sinh, và tôi hy vọng những điều em trai tôi nói là đúng. Mẹ của chúng tôi rất kỳ vọng vào con cái. Bà đọc rất nhiều và yêu thích giáo dục cho dù bản thân bà không được hưởng học hành đến nơi đến chốn. Bà vào đại học được một năm thì rời trường để lấy chồng. Và có thể để bù đắp cho điều này, bà đã quy định từ đầu là tôi phải vào đại học và phải đạt được một thành công cho bản thân mình. Nỗi buồn lớn nhất trong đời tôi là bà mất vì bệnh ung thư quá sớm, khi chúng tôi mới bắt đầu phát đạt trong kinh doanh.

Mẹ tôi là một người luôn biết cách tạo động lực cho người khác và tôi đã nghiêm túc tuân theo lời bà rằng tôi phải luôn cố gắng hết sức trong bất cứ việc gì mình làm. Vì vậy, tôi luôn theo đuổi mọi thứ mình quan tâm với một ham mê thực sự - mà một số người gọi đó là nỗi ám ảnh - để giành chiến thắng. Tôi luôn tự đặt ra cái ngưỡng thật cao cho mình: đó là đề ra các mục tiêu cá nhân rất cao.

Thậm chí khi còn là một đứa trẻ tại Marshall, Missouri, tôi nhớ mình đã là một đứa trẻ đầy tham vọng. Tôi là lớp trưởng trong suốt nhiều năm. Tôi chơi bóng đá, bóng chày, bóng rổ với những đứa trẻ khác. Tôi cũng còn tham gia bơi vào mùa hè nữa. Tôi ganh đua đến nỗi khi bắt đầu tham gia nhóm hướng đạo sinh tại Marshall, tôi đã đánh cuộc với những đứa trẻ khác xem ai trong số chúng tôi sẽ là người đầu tiên đạt đến cấp bậc cao nhất (Đại bàng - Eagle) trong hàng ngũ hướng đạo sinh. Trước khi tôi đạt được cấp Đại bàng ở Marshall, gia đình chúng tôi đã chuyển tới một thị trấn nhỏ là Shelbina, bang Missouri với dân số khoảng 1.500 người, nhưng tôi đã thắng cuộc; tôi đạt được cấp Đại bàng ở tuổi 13, hướng đạo sinh đạt được cấp Đại bàng trẻ tuổi nhất trong lịch sử bang Missouri vào thời điểm đó.

Tôi bắt đầu tham gia hoạt động nhóm khi học lớp 5. Điều này thật khó tin, nhưng lại là sự thật: trong suốt cuộc đời, tôi chưa bao giờ bị thua trong một trận đấu. Chắc chắn là không phải hoàn toàn nhờ tôi, mà thực tế là tôi có một chút may mắn. Tôi bị ốm hoặc bị chấn thương trong một số trận mà chúng tôi đã không thể thắng dù có hay không có tôi - do vậy tôi đã tránh được một vài thất bại. Nhưng tôi cho rằng, kỷ lục này quan trọng đối với tôi. Nó dạy tôi biết chờ đợi chiến thắng, chấp nhận những thách thức khắc nghiệt và luôn có kế hoạch để giành thắng lợi. Sau này trong cuộc đời mình, tôi nghĩ Kmart hoặc bất cứ sự cạnh tranh nào mà chúng tôi phải đối mặt cũng chỉ giống như trường trung học Jeff City, đội bóng mà chúng tôi đối mặt trong trận chung kết bang năm 1935. Tôi không bao giờ nghĩ là mình có thể thua; đối với tôi, gần như đương nhiên là tôi có quyền thắng. Suy nghĩ theo cách đó dường như đã trở thành một lời tiên đoán sau này trong suốt cuộc đời tôi.

Tôi tốt nghiệp Đại học Missouri vào tháng 6/1940 với bằng kinh doanh, và tôi đã làm việc cật lực như đã làm trong suốt cuộc đời. Tôi luôn tràn đầy năng lượng, nhưng tôi cũng thấy mệt. Từ khi vào trung học, tôi đã tự làm ra tiền và tự mua quần áo cho mình. Tại trường đại học, tôi chi thêm tiền học, tiền ăn, các khoản hội phí và tiền chi cho các cuộc hẹn hò. Bố mẹ tôi sẽ rất vui lòng giúp đỡ tôi nếu có thể, nhưng đó là thời kỳ Đại khủng hoảng và họ không có thêm một khoản tiền nào. Tôi phải tiếp tục công việc đưa báo trong thời học trung học, và vào đại học tôi phải đi đưa thêm một số tuyến đường mới, thuê một vài người giúp đỡ, và biến nó thành một việc kinh doanh tương đối tốt. Tôi kiếm được khoảng 4.000 đến 5.000 đôla mỗi năm, khoản tiền mà vào cuối thời kỳ Đại khủng hoảng là tương đối lớn.
Ngoài việc đưa báo, tôi còn làm phục vụ bàn để đổi lấy đồ ăn, và tôi cũng đứng đầu đội cứu hộ bể bơi. Bạn có thể thấy tôi là người khá bận rộn, và bạn có thể hiểu được tại sao tôi ngày càng tôn trọng giá trị đồng đô la. Nhưng giờ đã đến lúc tốt nghiệp đại học, và tôi đã sẵn sàng từ bỏ những công việc này, để thực sự háo hức bước ra ngoài thế giới và tự tạo ra một giá trị nào đó cho bản thân mình bằng một công việc thực sự.

Chuỗi siêu thị Wal*Mart nổi tiếng ở Mỹ

Lần đầu tiên cơ hội bán lẻ đến với tôi vào năm 1939, khi gia đình tôi chuyển đến ở cạnh nhà một người đàn ông tên là Hugh Mattingly. Ông từng là thợ cắt tóc ở Odessa, Missouri trước khi cùng với những anh em của mình bắt đầu phát triển một hệ thống có tới 60 cửa hàng vào thời điểm đó. Tôi có thể nói chuyện với ông về việc buôn bán, về cách thức tiến hành, và kết quả kinh doanh. Ông rất quan tâm đến tôi và sau đó thậm chí còn đề nghị tôi làm việc cho ông ta.

Công việc diễn ra khá thuận lợi - ba ngày sau khi tốt nghiệp (ngày 03/06/1940) tôi đến nhận công việc tại cửa hàng JC Penney tại Des Moines, Iowa, và bắt đầu làm nhân viên quản lý tập sự với mức lương 75 đôla một tháng. Đó là ngày tôi gia nhập nghề bán lẻ, và ngoại trừ thời gian phục vụ trong quân đội thì tôi đã ở trong nghề này suốt 52 năm. Có thể tôi được sinh ra để trở thành một thương gia, có thể đó là số phận. Tôi không biết nhiều về những điều đó, nhưng tôi chắc chắn về điều này: tôi yêu thích nghề bán lẻ ngay từ đầu và đến tận bây giờ tôi vẫn yêu thích nó. Tuy nhiên, không phải ngay lập tức mọi việc đã diễn ra suôn sẻ như vậy.

Như đã nói, tôi có thể bán hàng, và tôi yêu thích công việc bán hàng. Không may là tôi đã không bao giờ tập viết cẩn thận. Helen nói rằng chỉ có khoảng năm người trên thế giới có thể đọc được chữ viết như gà bới của tôi và bà ấy không thuộc số đó. Điều này bắt đầu gây khó khăn cho tôi trong công việc mới. Ở Penney có một nhân viên đến từ New York tên là Blake chuyên đi khắp đất nước để kiểm toán các cửa hàng, đánh giá nhân sự và những việc linh tinh khác, và ông ta gặp chúng tôi khá thường xuyên. Tôi nhớ rằng ông ta là một người cao lớn, trên 6 feet, và luôn ăn mặc rất lịch sự với những bộ comple, áo sơ mi và cà vạt đẹp nhất của hãng Penney. Ông ta rất khó chịu vì tôi đã làm rối tung các hóa đơn bán hàng và thường nhầm lẫn số đăng ký hàng hóa. Tôi không thể để một khách hàng mới phải đợi trong khi lãng phí thời gian với đống giấy tờ về số hàng mà tôi đã bán và phải thừa nhận là nó đã gây ra nhiều rắc rối.
Ông Blake sẽ nói khi đến Des Moines sẽ gặp tôi: “Walton, nếu cậu không phải là một nhân viên bán hàng giỏi như vậy, có lẽ tôi đã sa thải cậu. Có thể cậu chỉ đơn giản là không được sinh ra để bán lẻ mà thôi”.
May mắn thay, tôi đã tìm được một nhà vô địch trong cửa hàng nơi tôi làm. Đó là nhà quản lý Duncan Majors, một người có khả năng tạo động lực tuyệt vời và có niềm tự hào là đã đào tạo nhiều quản lý viên của Penney hơn bất kỳ ai trên nước Mỹ. Ông có kỹ thuật riêng của mình và là một nhà quản lý rất thành công. Bí quyết của ông là có thể khiến chúng tôi làm việc từ sáu giờ rưỡi sáng đến bảy hoặc tám giờ tối. Tất cả chúng tôi đều muốn trở thành quản lý viên như ông. Vào chủ nhật khi không phải làm việc thì chúng tôi, cả tám người đều là nam giới đến nhà ông. Tất nhiên chúng tôi sẽ nói chuyện về bán lẻ và chơi bóng bàn hoặc chơi bài. Đó là một công việc làm cả tuần. 
Logo và slogan của Wal*mart

Tôi nhớ vào một ngày chủ nhật, Duncan Majors lĩnh séc thưởng hàng năm của Penney và khoe nó ở khắp mọi nơi. Khoản tiền thưởng khoảng 65.000 đôla đã gây ấn tượng mạnh tới chúng tôi. Việc được nhìn người đàn ông này làm việc làm tôi thấy phấn khích với công việc bán lẻ. Ông thực sự rất giỏi. Hồi đó có một điều hay là ngài James Cash Penney thường đích mình đến thăm cửa hàng. Ông không qua lại các cửa hàng thường xuyên như tôi vẫn làm sau này, nhưng ông cũng có đi lại. Tôi vẫn nhớ ông đã chỉ cho tôi cách buộc và đóng gói hàng hóa, bọc hàng với những sợi dây và những tờ giấy tuy nhỏ nhưng nhìn vẫn đẹp.

Tôi làm việc cho Penney khoảng mười tám tháng, và theo những gì tôi biết, họ đã thực sự là đầu tàu của ngành này. Nhưng hồi đó tôi đang trong quá trình tìm kiếm sự cạnh tranh. Bộ phận tôi làm việc tại Des Moines có ba cửa hàng, do đó vào giờ ăn trưa tôi đi lang thang tới các cửa hàng của Sears và Yonkers để xem họ làm gì.

Đến đầu năm 1942, khi chiến tranh vẫn đang diễn ra, là một người đã tốt nghiệp ROTC, tôi hăng hái tình nguyện, sẵn sàng vượt biển và thực hiện nghĩa vụ người lính của mình. Nhưng quân đội là một điều ngạc nhiên lớn đối với tôi. Do có khuyết tật nhỏ về tim, tôi không đủ tiêu chuẩn về thể lực để tham gia chiến đấu mà chỉ được giao những nhiệm vụ hạn chế. Loại công việc này làm tôi chán nản và do chỉ muốn được gọi đi chiến đấu nên tôi đã bỏ việc tại Penney và chuyển xuống phía nam, về hướng Tulsa với ý niệm mơ hồ là muốn xem công việc kinh doanh dầu lửa ở đây như thế nào. Nhưng tôi lại nhận được việc làm tại nhà máy thuốc súng khổng lồ Du Pont tại thị trấn Pryor, bên ngoài Tulsa. Căn phòng duy nhất tôi có thể tìm được nằm ở phía trên Claremore. Đó là nơi tôi gặp Helen Robson vào một đêm tháng Tư tại một sân chơi bowling. 

Tôi và Helen yêu nhau cùng một lúc. Cuối cùng tôi cũng được gọi vào quân đội để tham gia những nhiệm vụ thực sự. Do khuyết tật về tim, tôi không được chứng kiến các trận đánh nhưng vẫn có thể nhận trách nhiệm với chức vụ thiếu úy. Khi gia nhập quân đội, tôi đã xác định được hai việc: tôi đã biết được người mà tôi muốn lấy, và đã biết phải làm gì để kiếm sống - đó là bán lẻ. Khoảng một năm sau khi gia nhập quân đội, Helen và tôi cưới nhau vào ngày lễ Valentine 14/2/1943, tại thị trấn quê hương của Helen là Claremore, bang Oklahoma. Rồi chúng tôi quyết định khai trương cửa hàng bán lẻ đầu tiên.

Năm năm đầu tiên của tôi ở Newport đã trôi qua và tôi đã thực hiện được mục tiêu của mình. Cửa hàng Ben Franklin nhỏ của tôi đã có được doanh số 250.000 đôla và đem lại 30.000 tới 40.000 đôla lợi nhuận trong một năm. Đó là cửa hàng Ben Franklin số một về doanh số và lợi nhuận, không chỉ ở Arkansas mà ở toàn bộ vùng sáu bang. Nó là cửa hàng tạp hóa lớn nhất tại Arkansas, và tôi không tin là có một cửa hàng nào lớn hơn tại ba hay bốn bang lân cận".

(Trích cuốn "Sam Walton - ông vua bán lẻ ở Mỹ" do Công ty Alpha Books phát hành)
(Nguon Blog ky Nang)

16 June 2012

Đinh Khắc Tuấn: Từ giám đốc đi xe đạp đến doanh thu tiền tỷ


Dù doanh thu tầm 800 triệu đồng/tháng nhưng với Đinh Khắc Tuấn – Giám đốc Công ty Dịch thuật Chuyên nghiệp CNN, việc trở thành người đi tiên phong trong ngành mới thực sự quan trọng.

29 tuổi, điều hành doanh nghiệp tương đối quy mô, chủ nhiệm một vài câu lạc bộ, chưa kể thời gian cho lớp học ngoại ngữ, tập yoga, khiêu vũ, luyện thanh,… tôi cứ ngỡ gặp được Tuấn sẽ chẳng dễ dàng gì. Nhưng chỉ sau một cuộc điện thoại, hai giờ sau tôi đã có mặt tại văn phòng công ty CNN với sự đón tiếp thân tình từ anh.

Năng động, thông minh, cởi mở là ấn tượng đầu tiên với bất cứ ai tiếp xúc với Đinh Khắc Tuấn.
Thấy anh lúc nào cũng rạng rỡ như chính biệt danh “Nụ cười tỏa sáng” mà bạn bè thường gọi, nhiều người cùng chung thắc mắc với tôi: “Hình như chưa bao giờ thấy anh buồn bã?”, “Vì sao anh luôn duy trì được trạng thái hưng phấn?”, “Anh lấy năng lượng từ đâu?”, Tuấn vui vẻ nói: “Có lúc buồn chứ. Tâm trạng con người giống như biểu đồ hình sin, lên xuống là chuyện bình thường. Nhưng khi tâm trạng trồi xuống, nếu tích cực tham gia các hoạt động, bạn sẽ thay đổi trạng thái nhanh hơn”. Anh tiết lộ: “Mình tập yoga 3 buổi/tuần, dancing vào tối Chủ nhật, lịch kín thế làm sao tinh thần sụt giảm được!? Mình nghĩ khi gặp những người có năng lượng tốt, họ sẽ truyền cảm hứng cho mình. Điều quan trọng, mình đã nghĩ khác. Bạn hình dung, khi một con người đã có một mục tiêu lớn và xác định rõ đường đi nước bước, biết rõ cuộc đời mình sẽ thế nào, tại sao bạn phải buồn?”
Quả thật, đối diện với Đinh Khắc Tuấn, chàng trai làm giám đốc khi mới 22 tuổi này, người đối diện cũng trở nên phấn chấn hơn bởi nguồn năng lượng được truyền sang từ anh. Ở bài viết này, tôi muốn giới thiệu tới độc giả chân dung con người mang trong mình nhiều hoài bão và nghị lực đó.
Những phi vụ kinh doanh đình đám
Là con út trong gia đình có 7 người con ở Hải Phòng, bố là giáo viên dạy toán, mẹ buôn bán ngoài chợ, Đinh Khắc Tuấn sớm bộc lộ khả năng kinh doanh của mình. Anh kể: “Còn nhớ lúc 4 tuổi mình đã mang thúng mẹt ra trước cửa ngồi bán bánh kẹo”. Nhưng chỉ khi bước vào năm thứ nhất Khoa tiếng Trung thuộc trường Đại học Ngoại Ngữ quận Thanh Xuân, Hà Nội (nay là Đại học Hà Nội), khả năng kinh doanh của anh mới bộc lộ rõ nét. 
Photo tạp chí nước ngoài mang bán
Năm 2001, internet chưa phổ biến như bây giờ, thậm chí còn rất ít người có máy tính. Ngoài những giờ trên giảng đường, sinh viên thường lên thư viện đọc sách hoặc truyền tay nhau những tờ báo in. Cầm trên tay cuốn tạp chí Trung Quốc, Tuấn và một người bạn bèn nảy ra ý tưởng sao thành nhiều bản mang bán cho các bạn. Giá bán của mỗi cuốn tạp chí photo là 10.000 đồng, trong khi giá photo tầm 2.000 đồng, đôi bạn vẫn còn những 8.000 đồng bỏ túi. Tuấn cho biết dịp đó anh cũng bán được tầm vài trăm cuốn.
"Buôn earphone cũng là một cái duyên"
Năm thứ hai, mặc dù rất bận rộn với việc học (Tuấn học hai ngành cùng một lúc là phiên dịch tiếng Trung và quản trị kinh doanh), nhưng hễ có cơ hội là anh lại tổ chức những phi vụ ngay trong trường. "Buôn earphone cũng là một cái duyên", Tuấn cho biết. Một lần, khi lang thang ở Chợ Sắt (Hải Phòng), Tuấn nhìn thấy những chiếc earphone second-hand của Nhật nhỏ gọn, dây mảnh nhưng dai, khi nằm ngủ vẫn có thể cho vào tai nghe nhạc, rất tiện dụng nên mua về dùng thử. 
Thấy hàng tốt, bền mà giá thành lại phải chăng nên bạn bè nhờ Tuấn mua hộ. Lần thứ nhất về quê Tuấn mua vài chục cái mọi người đều lấy hết. Lần thứ hai, Tuấn mua cả trăm cái bán vẫn chạy. Tuấn bắt đầu làm phép tính: mỗi phòng ký túc xá có 10 người, 1 dãy 10 phòng có 100 sinh viên nhân với 4 tầng đã có 400 người. Khu ký túc xá bên cạnh cũng có khoảng 500 sinh viên nữa, vị chi khách hàng tiềm năng có khoảng gần 1000 người. Thấy đây là một cơ  hội tốt, Tuấn bỏ ra mấy triệu đồng mua vài trăm chiếc earphone về bán cho toàn bộ sinh viên trong khu ký túc xá. 
Không dừng lại ở đây, Tuấn còn mang earphone bán cho sinh viên khoa tiếng Trung và khoa Quản trị Kinh doanh, rồi bán cho toàn bộ sinh viên các khoa tiếng Nga, Nhật, Hàn trong trường Đại học Hà Nội. Mỗi chiếc earphone giá 15.000 đồng được bán với giá 30.000 đồng, Tuấn vẫn lãi 15.000 đồng. Tất nhiên, Tuấn cũng xây dựng hệ thống phân phối khá bài bản và có chế độ hoa hồng rõ ràng cho những bạn muốn làm “đại lý”. Sau khi chiết khấu cho các “đại lý”, “phi vụ” này giúp Tuấn thu về 7-8 triệu đồng, một con số không nhỏ so với mức chi tiêu 400.000-500.000 đồng/tháng của các bạn sinh viên thời bấy giờ.
Kinh doanh từ điển tiếng Trung
Thấy Tuấn tổ chức buôn bán bài bản, năm thứ ba, một người bạn rủ anh kinh doanh từ điển tiếng Trung, ăn chia lợi nhuận. Với giá nhập khoảng 120.000 đồng/cuốn, Tuấn bán với giá 200.000 đồng, số tiền lãi kiếm được khiến anh tiêu xài khá “rủng rỉnh”.
Hình thức PR rất đơn giản. Biết trước được nhu cầu của các bạn sinh viên cần sử dụng từ điển, Tuấn đến gặp lớp trưởng các lớp giới thiệu về cuốn từ điển, rồi bảo họ đăng ký, nộp tiền trước hoặc đặt cọc. Đối với mỗi lớp trưởng Tuấn tặng luôn một cuốn hoặc bán giảm giá. Họ chủ động đứng ra thu tiền, còn Tuấn chỉ việc đến giao hàng và nhận tiền về. 
Những phi vụ làm ăn nổi tiếng một thời thực sự là chiếc bàn đạp giúp ích Tuấn xây dựng công ty về sau này.
Trở thành giám đốc đi... xe đạp
Ra trường tháng 6/2005, ngày 19/8 Đinh Khắc Tuấn nhận được giấy phép thành lập Công ty Dịch thuật Chuyên nghiệp CNN. Tôi mạnh dạn hỏi: “Vì sao anh dám mở công ty trong khi chưa có kinh nghiệm điều hành?”, anh hồn nhiên: “Làm gì có kinh nghiệm. Lúc đó mình nghĩ đơn giản lắm. Tuy nhiên, có hai điều thôi thúc mình: Thứ nhất, khi cộng tác cho một công ty dịch thuật, thấy mô hình của họ rất đơn giản và mình nghĩ người ta làm được mình cũng làm được, thậm chí có thể làm tốt hơn. Thứ hai, thời điểm tốt nghiệp khoa tiếng Trung mình vẫn đang học quản trị kinh doanh năm thứ hai. Mình nghĩ nếu đi làm thêm cũng mất nhiều thời gian. Mình mở công ty để vừa học, vừa làm và thực hành luôn những gì đã học”.
Với số tiền vỏn vẹn 15 triệu đồng vay của một người bạn bên Đài Loan cộng với 15 triệu đồng bạn cùng làm góp vốn. Tuấn thuê văn phòng hết 2 triệu (trả tiền nhà 3 tháng một lần), mua 2 dàn máy vi tính, bàn ghế cũng suýt soát 30 triệu. Thành thử, lúc ra trường, làm giám đốc nhưng Tuấn vẫn tiếp tục gắn bó với chiếc xe đạp. “Từ năm thứ nhất đến năm thứ tư mình toàn đi học bằng xe đạp. Lúc ra trường mở công ty, vẫn đi xe đạp thôi. Làm được một năm anh trai đi Pháp về chơi mới mua tặng chiếc xe máy”, Tuấn vui vẻ kể.
Dù là người duy nhất, lại là giám đốc đi xe đạp ở công ty, song CNN vẫn hoạt động khá chuyên nghiệp với 4 nhân viên dịch thuật, phòng ốc làm việc khang trang. Nhìn chung, công việc làm ăn của Tuấn cũng tương đối đông khách do ông chủ đã chú trọng đến việc tiếp thị dịch vụ trên Báo Rao Vặt, 1080, đặt biển quảng cáo ở những nơi có nhu cầu cao như đầu cổng trường ngoại ngữ,…
Nếu như trước đây, CNN chỉ có nhân viên dịch và giao bài, thì giờ đây các công việc đã được phân định rõ ràng. So với doanh thu những năm đầu khởi nghiệp vào khoảng hơn 100 triệu/tháng, đến nay doanh thu trung bình của CNN đã lên đến 800 triệu đồng/tháng. Kết quả đó không thể không nhắc tới tinh thần ham học và khả năng đào tạo, “truyền lửa” cho nhân viên của Tuấn. Quá trình vừa học, vừa làm việc, vừa trải nghiệm đó kéo dài khoảng 3-4 năm. Có năm, anh chi tới 250 triệu đồng cho các khóa học ở trong và ngoài nước. “Đến giờ Tuấn vẫn tiếp tục học nhưng sẽ học có chọn lọc hơn: học những gì mình thực sự cần thiết và ứng dụng được vào công việc”, anh cho biết.
Quyết tâm vươn ra ra biển lớn
Cái tên Đinh Khắc Tuấn đã trở nên khá nổi trong giới doanh nhân, đặc biệt là các bạn trẻ khởi nghiệp. Anh Tuấn thường xuyên tham gia vào các diễn đàn và nhiệt tình tư vấn cho những người trẻ còn lúng túng khởi sự kinh doanh. Gần đây, Tuấn cũng xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình như Đường đến thành công, Đường đến thành Rome, chia sẻ câu chuyện lập thân của mình. Với triết lý sống “Give and gain” (cho và nhận), năm 2010, Tuấn và một số người bạn sau khi đi học nước ngoài trở về đã thành lập ra CLB Millionaire House (Ngôi nhà triệu phú) với mong muốn trở thành cộng đồng triệu phú đôla có tẩm ảnh hưởng lớn ở Việt Nam và thế giới. Cũng từ chính ngôi nhà này, trên cương vị Chủ tịch, Tuấn đã chia sẻ cũng như thu lượm được nhiều điều bổ ích. Không xác định kiếm tiền từ CLB, nhưng cũng từ chính những mối quan hệ đó lại giúp anh nảy ra nhiều ý tưởng mới, ra tiền.
Anh Tuấn chụp chung với Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu tại một buổi chia sẻ sách của CLB.
Trước tình hình khó khăn chung như hiện nay, công việc kinh doanh của CNN không những co hẹp mà còn nở rộng. Tuấn phấn khởi: “Năm nay mình kinh doanh được hơn năm ngoái”. Về chiến lược chống khủng hoảng của mình, Tuấn chia sẻ: “Mình cơ cấu lại doanh nghiệp một chút sẽ nhìn thấy sự thay đổi. Thứ nhất, CNN giảm bớt nhân sự thừa, giữ lại những nhân sự cốt lõi. Thứ hai, mình đầu tư thêm cho marketing, mở rộng sản phẩm”.
Nói đến mở rộng sản phẩm, Tuấn tiết lộ vừa ký một hợp đồng thu âm lồng tiếng cho Vietnam Airlines. Hãng này sản xuất phim và thuê CNN thu âm lồng tiếng 8 ngôn ngữ khác nhau để quảng bá trên toàn cầu. “Thế giới là outsourcing (thuê lại nhân sự, công nghệ của nhau) mà, quan trọng mình phải chắc chắn về chất lượng dịch vụ và đứng ra đảm bảo với khách hàng là mình có thể làm được”.
Một điểm đặc biệt nữa là Tuấn luôn nhìn đối thủ của mình là những doanh nghiệp thuộc top 10 của thế giới. Tất nhiên, đó không phải là thái độ khinh suất đối thủ, mà Tuấn chỉ đặt cho mình những nấc thang cao hơn để có chiến lược dài hơi phấn đấu. Mục tiêu của Tuấn trong những năm tiếp theo là đưa CNN trở thành công ty toàn cầu, nhằm kiếm tiền không chỉ ở Việt Nam mà từ các nước khác trên thế giới. “Khi đi đầu trong lĩnh vực này, CNN sẽ là cầu nối ngôn ngữ để có điều kiện tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước”, anh nói thêm. 
Hiện Tuấn đang kêu gọi các nước thành lập Hiệp hội Dịch thuật châu Á. Hiện nay đã có Thái Lan, Ấn Độ, Myanmar, Lào, Malaysia, Indonesia, Campuchia đồng ý tham gia. Tuấn là người phụ trách mảng marketing cho hiệp hội. Anh cho biết: "Sau này, khi có một vị trí nào đó trong hội, mình sẽ có cơ hội để phát triển, giao lưu với các nước. Lúc đó mục tiêu vươn ra thế giới, đưa CNN trở thành doanh nghiệp toàn cầu sẽ sớm hoàn thành".
Theo TTVN