June 20, 2012 By
Trong nền kinh tế quốc
gia, người dân là khách hàng, là nhà đầu tư và các quan chức là người
bán hàng. Mục tiêu là sự thỏa mãn của “Thượng Đế”. Ngoài việc làm cho
túi tiền của dân càng ngày càng phồng to, bộ máy lãnh đạo phải tạo
thương hiệu, hay “niềm tin” của khách hàng vào chất lượng dịch vụ của
mình. Ít nhất là họ phải tin rằng người bán sẽ giao đúng món hàng, đúng
giờ và đúng giá…như lời hứa.
Khi nói chuyện kinh tế, nhiều chuyên gia
thường lên giọng nghiêm túc và dùng những danh từ khó hiểu nhất pha lẫn
những khẩu hiệu chánh trị rồi kèm theo những con số thường là do các
nhóm lợi ích cung cấp để không ai thấy rõ những mục tiêu riêng của mình
và phe nhóm. Thực ra, sự điều hành kinh tế của một quốc gia không khác
gì việc điều hành một doanh nghiệp. Một nền kinh tế cũng cần doanh thu
(thuế, hàng xuất khẩu, kiều hối…), vốn đầu tư (FDI, FII, dự trữ ngoại
tệ, vốn vay..), chi phí (nhân sự, giá vốn hàng hóa hay dịch vụ, hậu
cần…), lời hay lỗ (dòng tiền âm hay dương…), tài sản và nợ, thương hiệu
(niềm tin và sự thỏa mãn của người dân), mức tăng trưởng v.v…

Do đó, chúng ta có thể đánh giá khả năng
thành công hay thất bại của một nền kinh tế dựa trên những chỉ tiêu áp
dụng cho doanh nghiệp. Khi họp để bàn về một dự án hay một doanh nghiệp,
hội đồng thẩm định của quỹ đầu tư thường lưu ý đến 4 yếu tố then chốt
trong vấn đề khả thi: sản phẩm hay dịch vụ; ban quản trị; kế hoạch tiếp
thị và hiệu quả tài chánh.
Một quản lý quỹ thông minh thường biết
bỏ qua những “gương và khói” (smoke and mirror), những hình thức đánh
bóng hoành tráng để che đậy yếu kém và những chi tiết thực sự vô nghĩa
với sự thành công của dự án. Các công dân có kiến thức và tầm nhìn cũng
phải đánh giá một nền kinh tế thật chính xác, khoa học và cân bằng về
hiệu quả của đồng tiền bỏ ra, qua thuế hay nợ công hay tiền in thêm (một
hình thức thuế).
Einstein có nhắc chúng ta là “không
ngừng đặt câu hỏi”. Sau đây là những câu hỏi của tôi, có thể thiếu sót,
nhưng chắc chắn sẽ giúp tôi đánh giá tốt hơn cơ hội và rủi ro trong
tương lai nền kinh tế xứ này.
1. Sản phẩm hay dịch vụ trong mô hình kinh doanh
Như một doanh nghiệp, mỗi một quốc gia
đều có thế mạnh cạnh tranh và đặc thù dân tộc trong những chủ đạo của
nền kinh tế. Với yếu tố địa lý và dân số, Singapore đã thành công khi sử
dụng dịch vụ tài chánh quốc tế cho xứ sở. Mỹ có mũi nhọn công nghệ cấp
cao và thị trường tiêu thụ khủng; trong khi Trung Quốc dựa vào mô hình
sản xuất công nghiệp thông dụng cho toàn cầu. Nhật có lợi thế của một
văn hóa rất tổ chức để thâu tóm thị trường tiêu dùng chất lượng; trong
khi Ấn Độ biết lợi dụng lượng dân số có học, biết Anh ngữ để dành phần
thắng trong công nghệ phần mềm.
Việt Nam đang đổ tiền đầu tư nhiều nhất
vào lãnh vực gì? Lãnh vực đó có sản phẩm hay dịch vụ gì đặc thù hay có
lợi thế cạnh tranh gì trên thương trường quốc tế? Chúng ta đang đầu tư
dàn trải và xu thời hay chuyên sâu và bền vững? Sự lựa chọn sản phẩm và
dịch vụ có thông minh và sáng tạo hay ngu xuẩn và sao chép?
2. Ban quản trị
Hai nhân tố quan trọng của nhà lãnh đạo
là kiến thức và kinh nghiệm. Kiến thức đây không phải là bằng cấp, kiếm
được từ trường lớp hay đi mua từ chợ, mà là một dòng suy tưởng và phân
tích được bổ sung hàng ngày qua đám mây của nhân loại. Kinh nghiệm là
những thành quả từ chiến trường thực sự, thua hay thắng, bằng công sức
của chính mình và đội ngũ bao quanh.
Hai nhân tố trên sẽ giúp cho nhà lãnh
đạo có một tầm nhìn xa, chính xác; cũng như một phán đoán sắc bén hơn
khi trực diện những đòi hỏi của tình thế. Dĩ nhiên, lãnh đạo không thể
đi xa hơn các nhân tài trong nhóm quản trị; giá trị thực của toàn đội
ngũ cộng hưởng sẽ là vũ khí then chốt khi lâm trận.
Cho Việt Nam, ban quản trị kinh tế của
chúng ta có hội tụ được những người giỏi nhất về kiến thức và kinh
nghiệm để diều hành? Lãnh đạo có đủ tự tin để chiêu mộ những người tài
giỏi hơn họ? Nhân sự lãnh đạo được tuyển chọn như thế nào, qua phe nhóm
bè phái hay qua các kỹ năng và kinh nghiệm thực sự? Nhìn qua lý lịch và
thành tích của 30 người quan trọng nhất đang diều khiển bộ máy kinh tế
xứ này, người dân nhận định ra sao? Và vấn đề đạo đức? Chúng ta có nên
bắt chước vài quốc gia đòi hỏi một liệt kê tài sản của các lãnh đạo và
gia đình họ, trước và sau khi nắm quyền? Chúng ta có dám để những chuyên
gia hay định chế độc lập phân tích và phán xét nhân sự và bộ máy điều
hành?
3. Kế hoạch tiếp thị
Một nhà hiền triết Trung Quốc dạy,” Muốn
thống trị thiến hạ thì hãy phục vụ mọi người”. Phục vụ và đáp ứng được
nhu cầu để khách hàng thỏa mãn là một kế hoạch tiếp thị thành công.Đây
thực sự là một hành động liên tục, chứ không phải một vài khẩu hiệu khôn
ngoan hay một cô người mẫu đẹp mắt trong một phút quảng cáo trên TV.
Trong nền kinh tế quốc gia, người dân là
khách hàng, là nhà đầu tư và các quan chức là người bán hàng. Mục tiêu
là sự thỏa mãn của “Thượng Đế”. Ngoài việc làm cho túi tiền của dân càng
ngày càng phồng to, bộ máy lãnh đạo phải tạo thương hiệu, hay “niềm
tin” của khách hàng vào chất lượng dịch vụ của mình. Ít nhất là họ phải
tin rằng người bán sẽ giao đúng món hàng, đúng giờ và đúng giá…như lời
hứa.
Trong các dịch vụ của chánh phủ, quan
trọng là công ăn việc làm, an ninh, y tế, giáo dục, môi trường, văn hóa
và bảo hiểm xã hội cho những người kém may mắn. Ngoài ra, một nhiệm vụ
“mềm” nhưng cần thiết là tạo niềm tin vào tương lai cho khách hàng với
sự minh bạch, trung thực và sáng tạo.
Các lãnh đạo kinh tế ở Việt Nam đã đáp
ứng được nhu cầu này chưa? Những người dân đang sinh hoạt hàng ngày có
“tin” vào những giải pháp đề nghị, những dự án dài hạn, những thực thi
luật lệ, những tiêu xài đa dạng của chánh phủ? Cụ thể hơn, họ có tin là
chánh phủ đang làm tất cả để bảo đảm giá trị của đồng tiền VN, để khả
năng thu nhập và mua sắm gia tăng đều đặn, để môi trường sống phù hợp
với sức khỏe công cộng, để xã hội bớt bức xức về tệ nạn văn hoá?
4. Hiệu quả tài chánh
Sau cùng, mọi nhà đầu tư đều muốn đồng
tiền của mình được sử dụng hiệu quả và sinh lợi thương trực. Ngoài các
con số về lợi nhuận và doanh thu, họ quan tâm nhất đến chỉ số hoàn trái
(ROI: return on investment). Dù kế hoạch, ban quản trị, kỹ năng tiếp
thị…có hay giỏi đến đâu, nhà đầu tư sẽ cho là vớ vẩn (Bull S.) nếu công
ty liên tục thua lỗ.
Câu hỏi người dân thường đặt ra cho mọi
chánh phủ là “trong nhiệm kỳ của ông hay bà, đời sống chúng tôi có khả
quan hơn không?”. Về vật chất, về sức khỏe, về tinh thần, về tương lai
con cái…tôi có nhiều hy vọng và lạc quan hơn không? Các ông bà đã đem
tiền thuế, tiền nợ công, tiền các ông bà tự in ra…đầu tư vào những thứ
gì và hiệu quả tài chánh của chúng là thế nào? Các ông bà tiêu xài trong
tiết kiệm và cẩn trọng số tiền của chúng tôi hay thích đi xây những văn
phòng hoành tráng, mua những siêu xe, mở những tiệc tùng liên tục.. để
hưởng thụ?
Trong 10 dự án đầu tư thì luôn có một
vài lỗ lã, nhưng nếu cả 10 đầu tư đều lỗ nặng thì không ai muốn bỏ 1 xu
vào quỹ của các ông bà. Trong khi đó, nếu chúng tôi thu lợi được 30-50%
mỗi năm, thì chuyện các ông bà ăn bớt 5-10% cũng ổn thôi. Còn nếu chúng
tôi đã lỗ 20-30% rồi mà lại còn chi cho các ông bà quản lý thêm 20-30%
nữa; không sớm thì muộn, chúng tôi sẽ lăn quay ra chết…vì ngu và điên.
Đặt các ông bà xây 1 khúc đường mà giá cao hơn thị trường gấp đôi lại hư
hỏng khi chưa sử dụng…thì xử trí sao đây? Ngoài đời, khi bỏ 16 triệu mà
mua nhầm một Iphone dỏm từ Trung Quốc thì phải quay lại cửa hàng …đấm
vỡ mặt thằng bịp.
Dĩ nhiên, còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến kết quả của bất cứ dự án đầu tư nào. Thời thế, may mắn, quan hệ,
biến động xã hội, thiên tai…đều có thể trở thành những tác động chủ yếu.
Nhưng chúng ta phải tùy thuộc vào những phân tích định lượng nêu trên
để đánh giá cơ hội thành công của dự án; cũng như những rủi ro khiến
chúng ta “tiền mất tật mang”.
Do đó, qua lăng kính của 4 góc nhìn
chính, người dân có thể đoán được là các nhà lãnh đạo kinh tế Việt Nam
có đủ khả năng đưa con thuyền này vượt sóng cao, ra biển lớn, ganh đua
ngang hàng với mọi đối thủ và đối tác trong ngôi làng toàn cầu? Hay là
chúng ta phải cầu nguyện mỗi ngày?
T/S Alan Phan, Chủ Tịch Quỹ Đầu Tư Viasa
7 June 2012
No comments:
Post a Comment